Thúc đẩy phát triển công nghiệp dược - Kỳ I: Phát huy tiềm năng, lợi thế nổi trội
Người
dân xã Hải Tây (Hải Hậu) thu hái cây dược liệu.
Năm 2020, sản phẩm Cao dây thìa canh của HTX Dược liệu Hải
Hậu ACT (Hải Hậu) được UBND tỉnh công nhận sản phẩm OCOP 3 sao và được cấp chứng
nhận Sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu tỉnh Nam Định năm 2021. Chị Trần
Thị Xuân, Giám đốc HTX cho biết: Để có nguồn dược liệu sạch, HTX chọn vùng
trồng sinh thái phù hợp với nguồn đất, nước đảm bảo; ký kết bao tiêu với các hộ
trồng dây thìa canh tại các xã Hải Phúc, Hải Lộc với các tiêu chí: vùng trồng
cách biệt xa khu dân cư, khu chăn nuôi; đảm bảo “3 không” (không dư lượng thuốc
trừ sâu, không kích thích tăng trưởng, không chất bảo quản) và “3 có” (có
nguồn giống tốt, có quy trình chuẩn và có hoạt chất cao). Để nâng tầm sản phẩm,
tạo giá trị gia tăng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, HTX đầu tư,
nâng cấp dây chuyền máy móc, trang thiết bị để phục vụ cho sản xuất và chế
biến sản phẩm. Sản phẩm Trà dây thìa canh được sấy khô ở nhiệt độ thích
hợp, đảm bảo dược tính, dưỡng chất, giữ nguyên màu sắc tự nhiên, không bị ảnh
hưởng từ môi trường bên ngoài và giúp tăng thời gian bảo quản sản phẩm. Các sản
phẩm Cao dây thìa canh, Trà dây thìa canh của HTX Dược liệu Hải Hậu ACT đáp ứng
tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định của Bộ Y tế. Sản phẩm từ cây
dược liệu này được nghiên cứu chứng minh có hỗ trợ giảm đường huyết, hạn
chế nguy cơ biến chứng tiểu đường; dùng cho người tiểu đường tuýp 1, tuýp 2;
người có đường huyết cao, tiền đái tháo đường.
Ngoài diện tích 357ha trồng lúa chất lượng cao, dây thìa canh là
cây “chủ lực” của xã Hải Lộc (Hải Hậu) trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo
hướng phát triển sản phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế cao. Đồng chí Cao
Đức Thiệp, Bí thư Đảng ủy xã Hải Lộc cho biết: Toàn xã hiện có hơn 40ha trồng
dây thìa canh; là địa phương đầu tiên ở Việt Nam xây dựng vùng trồng nguyên
liệu dây thìa canh đạt đủ tiêu chuẩn dược liệu theo tiêu chuẩn GACP - WHO của
tổ chức Y tế thế giới. Đây cũng là vùng trồng dược liệu đã
được tổ chức Helvetas thuộc Dự án Thương mại Sinh học Bio Trade do Cục dự
trữ liên bang Thụy Sỹ lựa chọn tài trợ để trở thành vùng dược liệu sạch, đảm
bảo tiêu chuẩn dược liệu theo chuẩn quốc tế.
Dẫn chúng tôi đi tham quan mô hình trồng dây thìa canh của
thành viên HTX trồng cây dược liệu Hải Lộc, chị Đỗ Thị Nụ, Chủ nhiệm HTX
cho biết: Trên những vùng chân ruộng cao, khó canh tác, trước đây chỉ chuyên
trồng khoai lang, cho thu nhập thấp, từ năm 2003, bà con địa phương đã
chuyển đổi đất 2 lúa kém hiệu quả sang trồng cây dây thìa canh. HXT trồng cây
dược liệu Hải Lộc hiện có 125 thành viên trồng cây dược liệu với tổng diện
tích gần 30ha. Hiện tại, sản phẩm dây thìa canh sấy khô của HTX trồng cây
dược liệu Hải Lộc đã được công nhận sản phẩm OCOP xếp hạng 3 sao. Ngoài dây
thìa canh sấy khô, HTX còn chế biến các sản phẩm tinh chế như: cao thìa canh,
trà túi lọc, tiện lợi cho người sử dụng. Về hiệu quả kinh tế, so với cây
lúa và một số cây rau màu khác, dây thìa canh mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn
hẳn. Đây cũng là loại cây dược liệu dễ trồng, dễ chăm sóc, ít sâu bệnh, chi phí
đầu vào thấp, trồng một lần có thể thu hoạch trên 10 năm. Theo tính toán
của bà con xã Hải Lộc, một sào dây thìa canh mỗi năm cho thu hoạch 4 lần, mỗi
lần được hơn 1 tạ dây khô. Ông Trần Văn Bộ, xóm 8, xã Hải Lộc chia sẻ: “Tính ra
1 sào cũng cho thu nhập gần 15 triệu đồng/năm. Với mức thu nhập này, cây dây
thìa canh cho thu nhập hơn gấp 4-5 lần so với trồng lúa và các cây hoa màu
khác”.
Đồng chí Nguyễn Văn Hữu, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn cho biết: Tỉnh Nam Định có điều kiện tự nhiên, sinh thái đa
dạng, đất đai thuận lợi cho phát triển sản xuất nhiều loại cây trồng, trong đó
có các loại cây dược liệu như: cát cánh, đương quy, bạch truật, hương nhu, bạc
hà, hòe… Hiện nay, diện tích đất có rừng toàn tỉnh là 2.967,32ha, chủ yếu
là rừng ngập mặn; trong đó, rừng đặc dụng 1.059,58ha; rừng phòng hộ
1.720,85ha; rừng sản xuất 186,89ha (gồm rừng sản xuất trong quy hoạch 88,23ha
và rừng ngoài quy hoạch 3 loại rừng đang rà soát để đưa vào quy hoạch 117,54ha)
là nơi có nhiều loài cây thuốc quý như: củ gấu, sài hồ, sâm đất, dứa dại, ô rô,
vọng đắng, trinh nữ…
Trên địa bàn tỉnh đã hình thành một số vùng trồng cây dược liệu
đáp ứng tiêu chuẩn GACP (thực hành tốt nuôi trồng và thu hái) là nguồn nguyên
liệu cho một số công ty sản xuất dược lớn (Công TNHH Nam Dược, Công ty TNHH
Traphaco, Công ty Hoa Thiên Phú…). Trong đó, trồng đinh lăng ở các huyện Nghĩa
Hưng, Hải Hậu; ngưu tất ở các huyện Vụ Bản, Nghĩa Hưng; dây thìa canh ở
huyện Hải Hậu... Nhìn chung các loại cây dược liệu hiện trồng đều có chất lượng
tốt, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người sản xuất. Cụ thể, diện tích cây
đinh lăng khoảng 290ha, sản lượng đạt trên 2.800 tấn, tập trung chủ yếu ở Nghĩa
Hưng, Hải Hậu, Giao Thủy, Trực Ninh…; diện tích hoa hòe, thanh hao trên 132ha,
sản lượng đạt trên 990 tấn, rải rác ở các huyện; diện tích ngưu tất, xạ đen,
hương nhu, cà gai leo, ngải cứu, nghệ, bạch chỉ, diệp hạ châu gần 300ha, sản
lượng khoảng 3.500 tấn, trồng rải rác ở các huyện.
Đồng chí Trần Trung Kiên, Giám đốc Sở Y tế cho biết: Với hệ sinh
thái thuận lợi, Nam Định có tiềm năng nổi trội để phát triển các vùng trồng cây
dược liệu. Các loại cây thuốc trên địa bàn tỉnh hiện đang được đưa vào danh mục
đầu tư bảo tồn, phát triển gồm: củ gấu biển, diệp hạ châu, sâm đất, sài hồ,
ngưu tất, huyền sâm, cát cánh, dây thìa canh, hoa hòe. Hiện ngành Y tế
phối hợp với các sở, ngành hữu quan, các địa phương xây dựng kế hoạch phát
triển vùng trồng cây dược liệu. Theo đó, tổng diện tích cây dược liệu đến năm
2025 vào khoảng 1.325ha, tăng 545ha so với hiện nay. Trong đó, cây đinh
lăng (tổng diện tích khoảng 750ha, tại các huyện Hải Hậu, Giao Thủy, Nghĩa
Hưng); ngưu tất (tổng diện tích khoảng 70ha, chủ yếu tại các huyện Vụ Bản,
Nghĩa Hưng); hòe, thanh hao (tổng diện tích khoảng 150ha tại các huyện Nam
Trực, Xuân Trường, Giao Thủy).
Tỉnh đã khuyến khích các ngành, địa phương tăng cường đầu tư
đồng bộ từ khâu bảo tồn, nghiên cứu khoa học, sản xuất, quản lý giống, nguồn
giống gốc đến sản xuất, khai thác, chế biến, phân phối, tiêu thụ sản phẩm dược
liệu. Thu hút các cơ sở sơ chế, sản xuất, chế biến sâu các sản phẩm từ dược
liệu. Thống kê, nghiên cứu, sưu tầm, kế thừa các bài thuốc và kinh nghiệm sử
dụng cây thuốc của các dân tộc trong cộng đồng; tìm kiếm, khai thác, sử dụng
dược liệu mới, làm sáng tỏ cơ sở khoa học của các vị thuốc, các bài thuốc đông
y. Ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học, chủ động chuyển giao các công nghệ,
tiến bộ kỹ thuật và dây chuyền thiết bị mới, tiên tiến để chiết xuất cao các
nguồn dược liệu theo tiêu chuẩn, tinh chế các sản phẩm từ dược liệu thành
nguyên liệu dùng trong công nghiệp dược và trong các ngành hóa học các hợp chất
tự nhiên. Phát triển, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học - công nghệ về bào
chế thuốc, công nghệ sinh học để phục vụ sản xuất các thuốc mới. Đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, điều hành từ khâu nuôi trồng,
khai thác đến chế biến, sử dụng dược liệu trong sản xuất thuốc, khám chữa bệnh
và các ngành khác (sản xuất thực phẩm chức năng, mỹ phẩm, công nghệ chiết
xuất).
(Còn nữa)
Nguồn: baonamdinh.vn