Tại Diễn đàn Kinh tế dược liệu Việt Nam: thế mạnh của khu vực KTTT, HTX
tổ chức ngày 25/7, Ủy viên BCH TW Đảng - Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Hầu
A Lềnh, cho rằng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại 51/63 tỉnh thành phố
nên có khí hậu khác nhau, có nguồn tri thức bản địa sâu sắc. Họ có kỹ năng sản
xuất cây công, nông nghiệp. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để nghiên cứu, phát
triển, tạo dựng giá trị thông qua tham gia HTX, từ đó góp phần quan trọng nâng
cao đời sống người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi.
"Như cô gái đẹp vừa thức giấc"
Theo nghiên cứu, hiện nay 80% dân số trên thế giới quan tâm đến các sản
phẩm chăm sóc sức khỏe. Các doanh nghiệp trong nước cần lượng dược liệu rất lớn
để phục vụ chế biến, trung bình mỗi năm 60-80 nghìn tấn. Nhưng trên thực tế,
nguồn dược liệu trong nước mới cung cấp được 13.600 tấn/năm và phần thiếu còn lại
chủ yếu bù đắp bằng việc nhập khẩu.
Xảy ra thực trạng trên là do nhiều địa phương tuy có thế mạnh về dược liệu
nhưng chưa xây dựng được vùng dược liệu tập trung đạt tiêu chuẩn của Bộ Y tế,
quy mô nhỏ lẻ, manh mún. Điều này là do trong quá trình trồng vẫn xảy ra hiện
tượng lẫn giống, thoái hóa giống và còn thiếu quy trình quản lý các yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng và tính an toàn của dược liệu.
Ủy
viên BCH TW Đảng - Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Hầu A Lềnh, cho rằng Nhà
nước đã có chính sách phát triển nguồn dược liệu tại vùng dân tộc miền núi
nhằm hướng đến mục tiêu mỗi năm giảm tỷ lệ đói nghèo là 30% ở các thôn, bản,
xã nghèo và hướng đến tăng thu nhập từ 2-3 lần tại các vùng khó khăn.
Là một tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển dược liệu, Thanh Hoá cũng đã
có 47 doanh nghiệp, HTX/1.314 HTX hiện có tham gia liên kết sản xuất, bao tiêu
sản phẩm cây dược liệu như: HTX dịch vụ nông lâm nghiệp Bình Sơn thu mua cà gai
leo để sản xuất trà cà gai leo túi lọc; Công ty Cổ phần Dược liệu Triệu Sơn và
HTX Sản xuất nông nghiệp Vinaco thu mua Sâm báo cho người dân các huyện Vĩnh Lộc,
Thạch Thành, Triệu Sơn… và đã được công nhận 19 sản phẩm OCOP thuộc nhóm thảo dược.
Tuy nhiên, theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa, ông Lê Đức Giang, nguồn
lực để các HTX, nhân dân phát triển dược liệu vẫn còn khiêm tốn. Việc áp dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất dược liệu vẫn chưa cao nên chưa thực sự nâng cao
năng suất, chất lượng dược liệu.
GSTS Trần Văn Ơn, Giảng Viên cao cấp trường Đại học Dược Hà Nội, ví von
rằng ngành dược liệu nước ta đang giống như một cô gái đẹp vừa thức giấc. Chính
vì vậy, muốn phát triển kinh tế dược liệu, còn rất nhiều điều phải làm.
Ngay về thị trường cho dược liệu hiện cũng gặp nhiều khó khăn. Về thị
trường trong nước, dược liệu Việt Nam hiện bị cạnh tranh rất lớn bởi dược liệu
Trung Quốc. Điều này dẫn đến thực trạng người dân, HTX trồng dược liệu nhưng
khó tiêu thụ.
Còn đối với thị trường xuất khẩu, tính cạnh tranh càng cao hơn khi các
thị trường nhập khẩu đòi hỏi các HTX, doanh nghiệp dược liệu phải vượt qua hàng
rào kỹ thuật. Trong đó, việc ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất, chế biến của người
dân, HTX còn gặp nhiều khó khăn.
Dẫn chứng cho điều này, GSTS Trần Văn Ơn cho rằng, quế vốn là một trong
tứ đại dược của Việt Nam nhưng rất ít tỉnh hiện nay chọn cây trồng này là cây
dược liệu chủ lực. Trong khi ngành quế đang đóng góp hơn 'tỷ đô' vào nền kinh tế
quốc gia, và bảo đảm sinh kế của hơn 200.000 gia đình và hoạt động của 266
doanh nghiệp, nhưng tổng diện tích cả nước mới chỉ 170.000ha. Thị trường quế nội
địa cũng đang gặp khó khăn bởi sự cạnh tranh mạnh mẽ từ quế Trung Quốc,
Indonesia, Trung Đông.
Điều này là do Việt Nam chưa xác định được đến nay có bao nhiêu loài quế.
Đi liền với đó là dù phát triển nhưng ngành quế vẫn chưa bền vững, giá trị gia
tăng chưa cao. Chính vì vậy, mới chỉ có 5% diện tích quế hiện nay đạt tiêu chuẩn
Organic. Số quế còn lại buộc phải bán sang thị trường có nhu cầu chất lượng thấp
nên giá trị kinh tế mang về cho người dân, HTX không lớn.
Phát huy vai trò của HTX
Thực tế cho thấy, Việt Nam có nhiều loài dược liệu có giá trị, phần lớn
nguồn gen này nằm ở vùng miền núi, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Nếu có chiến lược phát triển tốt, tạo ra giá trị, thương hiệu tốt cho dược liệu
sẽ tạo ra giá trị kinh tế tốt. Điều này sẽ góp phần cải thiện đời sống của đồng
bào dân tộc thiểu số, miền núi. Trong khi đây cũng là khu vực đang gặp nhiều
khó khăn nhất cả nước, đang cần tập trung, nỗ lực mọi nguồn lực để phát triển,
nâng cao chất lượng sống của người dân.
Việc bảo tồn, gìn giữ nguồn gen quý ở góc độ kinh tế cần phải quan tâm đến
vấn đề tạo ra giá trị từ nguồn dược liệu đó. Điều này mới là cái đích hướng đến
cho người dân, đặc biệt là người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Hầu A Lềnh, phát triển nguồn dược
liệu vùng đồng bào dân tộc thiểu số có rất nhiều phương thức khác nhau nhưng để
bảo đảm được hiệu quả, phù hợp với vùng đồng bào dân tộc thiểu số thì loại hình
HTX là phù hợp hơn cả.
Các
đại biểu tham quan các gian hàng của HTX.
Mặc dù, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có nguồn tài nguyên dược liệu
phong phú với nhiều nguồn gen và tri thức bản địa, nhưng vẫn cần nhìn nhận là
trong thời điểm hiện nay, việc phát triển các loại dược liệu vẫn còn khá manh
mún, nhỏ lẻ, chủ yếu theo quy mô hộ gia đình trong cùng một làng bản, trong
cùng một dòng họ hoặc gói gọn trong phạm vi một dân tộc mà chưa có chất xúc
tác, chưa có mô hình nào tạo ra một chuỗi liên kết, tạo ra một vùng rộng lớn, tạo
ra giá trị lớn về mặt thương hiệu cho dược liệu, từ đó tạo ra giá trị kinh tế lớn
cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Theo đánh giá của Liên minh HTX Việt Nam, các HTX nông nghiệp vùng đồng
bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng số HTX cả nước. Trong đó có
rất nhiều HTX phát triển dược liệu, phát huy thế mạnh từ dược liệu để tạo ra
giá trị kinh tế.
Chính vì vậy, để tạo ra giá trị rộng lớn cho dược liệu, cần phát huy vai
trò của các tổ hợp tác, HTX vùng đồng bào dân tộc thiểu số để phát triển vùng
dược liệu là việc hết sức cần thiết.
GSTS Trần Văn Ơn cũng cho rằng, muốn vực dậy được ngành quế cũng như
phát triển ngành dược liệu, chắc chắn phải dựa vào người dân để hình thành các
chuỗi giá trị, các vùng trồng trọng điểm. Bởi chính người dân, thành viên HTX mới
có kinh nghiệm trong chăm sóc, cách tỉa tán… để phát triển dược liệu mà ngay cả
các nhà khoa học cũng khó am hiểu hết. Trong khi dược liệu không chỉ dùng trong
ẩm thực mà trong y dược, sức khỏe, công nghiệp… cũng có nhu cầu rất lớn.
Theo Quyết định 1719/QĐ-TTg của Chính phủ về Chương trình mục tiêu quốc
gia phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, lần đầu tiên khu vực
này được đưa vào chương trình mục tiêu quốc gia. Đây cũng là điều kiện, cơ hội
để các tổ hợp tác, HTX tham gia một cách sâu rộng hơn trong xây dựng và phát
triển ngành dược liệu, nhất là các HTX vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Phát triển kinh tế dược liệu
Theo thống kê, nguồn dược liệu đang tập trung nhiều ở 21/51 tỉnh, thành
phố có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Nếu nguồn dược liệu này được phát huy,
được bảo tồn và phát triển lâu dài thì sẽ mang lại giá trị gia tăng cho người
dân, HTX, doanh nghiệp.
Nhưng để làm được điều này, các chuyên gia cho rằng, cần sửa đổi Luật
Lâm nghiệp và Luật Đất đai. Luật Lâm nghiệp phải cho phép phát triển kinh tế dưới
tán rừng thì mới phát triển được kinh tế dược liệu. Trong khi khả năng tiếp cận
đất đai của người dân, HTX để phát triển vùng nguyên liệu về dược liệu còn rất
khó khăn do những vướng mắc trong Luật Đất đai. Nếu không có vùng nguyên liệu
thì dù có nguồn gen tốt, người dân có khả năng sản xuất thì phát triển dược liệu
vẫn nhỏ lẻ, manh mún.
Đây là những vấn đề rất khó nhưng cần được tháo gỡ. Khi tạo được cơ chế
về đất đai, tài chính, các điều kiện tiếp cận khác cho người dân, HTX, doanh
nghiệp đầu tư thuận lợi thì mới phát triển được kinh tế dược liệu.
Trước thực trạng trên, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Hầu A Lềnh,
cho rằng nhận thức của người dân về giá trị của dược liệu, về việc bảo tồn,
phát triển sản xuất vẫn còn bất cập nên cần tuyên truyền cho người dân, thành
viên HTX thì mới thuận lợi trong việc hình thành vùng dược liệu, chuỗi dược liệu
bền vững.
Để giải quyết điều này, vai trò của Liên minh HTX các tỉnh sẽ rất quan
trọng nhằm hình thành và phát triển các HTX kiểu mới, tạo tiền đề phát triển dược
liệu vùng dân tộc thiểu số.
Về lâu dài, cần rà soát, điều chỉnh các cơ sở pháp lý để người dân, HTX,
doanh nghiệp phát triển dược liệu thuận lợi trong sản xuất, kinh doanh, liên kết…Cần
có sự phối hợp liên kết chặt chẽ giữa bốn nhà: Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học,
nhà doanh nghiệp. “Hiện các nhà khoa học đã có nhiều nghiên cứu nhưng việc triển
khai, ứng dụng, chuyển giao các nghiên cứu này vào thực tiễn còn nhiều khó khăn
và là câu chuyện còn khá dài”, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Hầu A Lềnh
nói.
Theo các chuyên gia, hiện nguồn lực để phát triển dược liệu còn có hạn,
do đó nếu tập trung phát triển lên đến trăm loài cây dược liệu cùng một lúc là
quá lớn và khó thực hiện. Chính vì vậy, cần tập trung vào những nhóm cây trồng
chính để hạn chế khó khăn, dàn trải.
Trong đó, nên tập trung vào 3 nhóm chính là quốc dược (quế cần quan tâm
phát triển, nâng cao giá trị của loại dược liệu này), tiếp theo là tịnh dược
(trà hoa vàng) và cuối cùng là Cộng đồng dược-tri thức bản địa trong người dân
được thực hiện trong chương trình OCOP.
Theo GSTS Trần Văn Ơn, phân chia thành các nhóm như vậy sẽ tập trung được
nguồn lực, giúp người dân, HTX dễ thực hiện và có kế hoạch cụ thể. Bên cạnh đó
nên gắn phát triển dược liệu với du lịch, nâng cao sức khỏe thay vì đầu tư làm
thuốc từ dược liệu vì thuốc rất khó làm, yêu cầu cao.
Nguồn: vnbusiness.vn